Ninh Bình không
chỉ được biết đến là một mảnh đất phong cảnh hữu tình với những địa điểm du
lịch nổi tiếng trong và ngoài nước mà còn là một vùng đất với những giá trị
lịch sử, truyền thống lâu đời, những làng nghề truyền thống mang nét đẹp hoài
cổ. Dưới đôi bàn tay khéo léo, sự sáng tạo, kiên trì, chăm chỉ trong lao động,
những người nghệ nhân nơi đây đã thổi hồn vào từng sản phẩm, tạo nên những nét
đẹp riêng biệt, đậm đà bản sắc vùng miền, dân tộc.
Lần đầu được
chạm tay vào những sản phẩm gốm mộc mạc, không có một lớp men tráng bóng bề
mặt, chỉ đơn thuần là những sản phẩm từ đất, mang màu sắc nâu cháy và hơi thở
của đất quê, cùng với những nét vẽ uốn lượn tinh tế về một nhành mai, một bức
tranh phong cảnh hay vài nét hoa văn mang đậm đường nét Việt, tôi chợt nhớ tới
nghệ thuật tối giản, rồi nghĩ về một tương lai có thể đi xa hơn của làng nghề
gốm Gia Thủy.
Làng nghề có
tuổi đời hơn 50 năm
Làng nghề gốm
Gia Thủy là một trong những làng nghề truyền thống ở Ninh Bình với những nét
đẹp chân thực và mộc mạc. Nằm trên địa phận xã Gia Thủy, huyện Nho Quan, tỉnh
Ninh Bình, làng nghề gốm truyền thống đã có tuổi đời hơn 50 năm.
Nằm trên con đê
liên xã, nối hai xã Gia Thủy và Gia Lâm thuộc huyện Nho Quan, làng gốm nằm trơ
trọi giữa một vùng đồng ruộng. Phía trước làng nghề là con sông Vang, một nhánh
sông nhỏ bị chặn lại, giờ chỉ còn lại chút ít nước với những cỏ lác và phù sa
lộ vết chân chim, chân cò. Tôi đến làng gốm vào một sáng muộn, khi những người
thợ gốm của làng đang tấp nập ra vào chuẩn bị cho một mẻ lò mới mà theo cách
gọi của người trong nghề là “ vào lò”.
Tôi đến gặp ông
Trịnh Đình Dũng - chủ nhiệm Hợp tác xã gốm Gia Thủy để tìm hiểu về làng nghề.
Vừa rót trà vào chiếc chén gốm nâu nhỏ- sản phẩm của chính làng nghề làm ra,
ông Dũng đưa tay lau vài giọt mồ hôi lấm tấm trên trán vì vừa đứng chỉ đạo mấy
người thợ “ vào lò”. Ông cho biết, làng gốm ra đời năm 1959, phát sinh từ Thanh
Hóa. Khi ấy, một số thợ gốm từ Thanh Hóa đã di cư về đây và mở một số lò gốm
nhỏ làm các vật dụng phục vụ cuộc sống sinh hoạt trong gia đình như nồi, niêu,
chum, vại...Dần dần, do chất lượng sản phẩm tốt, sự yêu mến của nhân dân trong
vùng đối với sản phẩm, các lò gốm gia đình được mở rộng, làng nghề gốm cũng ra
đời từ đó.
Nét riêng từ
cách làm và nguồn nguyên liệu đặc biệt
Sản phẩm của
làng nghề gốm Gia Thủy chủ yếu là những sản phẩm mộc mạc như nồi, chum, vại,
bình, đĩa gốm với các loại hoa văn, phong cảnh làng quê Việt được thể hiện một
cách tự nhiên, tinh xảo qua bàn tay khéo léo, tỉ mỉ của các nghệ nhân nơi đây.
Ông Dũng cho biết, làng nghề cơ bản sản xuất chum, sành không tráng men, nơi
đây khác với các nơi khác ở chỗ toàn bộ sản phẩm đều là men tự phát
Mỗi sản phẩm đều
là thành quả của sự miệt mài sáng tạo, thành quả gắn bó của cả một tập thể bao
gồm nhiều công đoạn khác nhau, thấm đẫm mồ hôi, công sức của những người thợ
của làng nghề. Từng nét vẽ mang đậm những dấu ấn vùng miền, đời sống của con
người Bắc Bộ. Không bóng bẩy như gốm Bát Tràng, gốm Gia Thủy mộc mạc, chân
phương, chan chứa hồn người, hồn đất. Nét đặc trưng, điều làm nên sự khác
biệt của gốm Gia Thủy so với các làng nghề gốm truyền thống khác là cách làm và
nguồn nguyên liệu độc đáo.
Bên chiếc bàn
tiếp khách nhỏ được đặt trong căn phòng toàn những sản phẩm chum, vại, bình gốm
mới chuốt đang đợi khâu vào lò tiếp theo, ông Dũng chia sẻ:“Nguồn đất sét ở
miền Bắc Việt Nam chỗ nào cũng làm nguyên liệu được, tuy nhiên đặc thù tốt
nhất, riêng biệt nhất vẫn là đất sét từ những vùng lân cận, đây là những vùng
đặc thù với nguồn nguyên liệu tốt có thể làm ra những hàng sành gốm truyền
thống như bây giờ. Đó là nét truyền thống xa xưa của các cụ và được tiếp nối
đến ngày nay, mọi người ở đây vẫn tiếp tục khai thác và tiếp tục nghiên cứu mở
rộng”.
Nói về đặc thù
nguồn nguyên liệu, các sản phẩm gốm của làng nghề đều được làm từ nguyên liệu
đất sét có màu nâu vàng, loại đất này có độ kết dính cao, mịn và chịu nhiệt
tốt. Đất khi lấy về sẽ được phơi khô, đập nhỏ rồi cho vào bể ngâm, tất cả đất
đều được ngâm ở hai chiếc bể to phía ngoài cổng đi vào. Sau đó, người thợ gốm
sẽ dùng máy khuấy đều rồi múc lọc qua sàng, tiến hành gạn bớt nước phía trên,
lấy phần đất đông đặc rồi mang ra phơi khô, đến khi đất đủ tầm dẻo là mang ra
làm được.
Việc phơi đất là
một khâu vô cùng quan trọng, đòi hỏi người thợ phải thật cẩn thận, bởi nếu để
đất khô quá hoặc ướt quá thì sẽ rất khó tạo hình cho sản phẩm như mong muốn.
Trong một căn
nhà khác là mấy người phụ nữ đang tất bật với chiếc bàn xoay và đất sét. Trông
thấy người thợ gốm vần xoay từng miếng đất sét trên chiếc đá, tôi thấy lạ nên
thắc mắc. Bà Vũ Thị Xuyến, người nghệ nhân gốm lâu năm tại làng nghề đang nặn
tạo hình một chiếc chum mới, trên chiếc bàn xoay. Dù tuổi đã cao nhưng bà làm
việc rất khéo léo, đôi tay bà thoăn thoắt, nhẹ nhàng nhưng vẫn đủ lực tạo nên
phần đáy chum vừa vặn. Vừa chăm chú làm việc, bà vừa chỉ sang phía người thợ
làm đất gần đó và nói.
Khâu nào trong
quá trình làm gốm cũng quan trọng hết, ngay cả công việc làm đất kia. Đừng nhìn
vậy mà thấy nó đơn giản, công việc đòi hỏi sự dẻo dai, bền bỉ, đất phải ở độ
vừa phải, không quá khô hay quá ướt, như vậy mới dễ nặn chum, nặn vại...Bà làm
gốm đã nhiều năm rồi, từ bé đã bầu bạn với đất quê, sau lớn lên bố mẹ truyền
cho cái nghề để kiếm sống. Công việc tuy mệt nhọc, có vất vả nhưng không làm là
thấy thiếu thiếu gì đó, không dứt ra được...
Việc tiếp củi vào
lò nung cũng rất quan trọng. Để ra được sản phẩm đẹp, chất lượng mà theo người
trong nghề như ông Dũng, đó phải là sản phẩm “ đủ chín, chất gốm vàng, đều màu”
thì công đoạn nung sản phẩm đóng vai trò quyết định. Nếu trong quá trình nung,
người thợ không điều chỉnh lửa, điều chỉnh nhiệt độ phù hợp thì sản phẩm sẽ
cong, vênh hoặc rạn nứt…
Ông Dũng nói
vui, người thợ ở khâu nung gốm là những người nghệ nhân thực thụ,giống như có
phép thuật, họ chỉ cần nhìn lửa là biết khi nào gốm đã “chín tới”, ngọn lửa như
thế nào là đủ để cho ra một mẻ gốm đẹp, đó là cách nắm bắt ngọn lửa. Tôi thầm
nghĩ, chẳng có phép màu gì cả, chỉ đơn giản họ đã làm việc bằng cái tâm cùng
với một vốn kinh nghiệm dày dặn mà thôi. Bởi vậy, trong mỗi quy trình, ở mỗi
người thợ lành nghề phải đòi hỏi độ tỉ mỉ, kiên trì, sự kinh nghiệm và hết lòng
với nghề.
Mỗi mẻ gốm ra lò
mất tới gần một tháng trời, từ khâu lấy đất, đập, ngâm đất đến việc tạo hình,
nặn và chuốt gốm, và cuối cùng là công đoạn cuối cùng đầy khó khăn, nhọc nhằn
khi vào lò. Tất cả các quy trình trên đòi hỏi những người thợ, người nghệ nhân
trong một lò gốm phải bền bỉ, kiên trì và có sự giúp đỡ, gắn kết lẫn nhau để
cho ra một sản phẩm truyền thống với chất lượng tốt nhất.
Làng
nghề trong thời kì hội nhập, hướng đi nào cho những người ở lại?
Năm 2007, làng gốm Gia Thủy được công nhận là
làng nghề truyền thống. Dưới sự quan tâm, giúp đỡ của chính quyền địa phương và
tỉnh Ninh Bình, làng nghề gốm được nhiều người biết tới. Thêm vào đó là chính
chất lượng, mẫu mã của sản phẩm mà các sản phẩm của làng nghề được mọi người
yêu mến và tin tưởng.
Đối tượng khách
hàng của làng nghề cũng khá đa dạng, từ khách hàng trong nước, đến những khách
hàng nước ngoài như Lào, Campuchia, Nhật Bản và Hàn Quốc. Việc làm ăn phát
triển, thuận lợi như vậy là câu chuyện của những năm trước, còn mấy năm trở lại
đây có chút thay đổi.
Ông Dũng cho
hay, việc làm ăn mấy năm gần đây thực sự rất khó khăn. Trước kia chỉ có
một HTX gốm, giờ có nhiều cơ sở nhỏ lẻ mọc lên ở những xã lân cận, về mô hình,
sản phẩm đều giống như gốm Gia Thủy, tuy nhiên những người trong nghề lâu năm
như ông vẫn cố gắng tạo điều kiện, đảm bảo duy trì và tạo đồng lương cho
người lao động, cũng như giữ vững cái nghề của ông cha.
“Mình muốn cạnh tranh phải làm tốt sp của mình, tăng tính cạnh tranh, đáp ứng
nhu cầu thị hiếu của người dân,... trong lao động, mấy năm vừa rồi thật sự khó
khăn, có bão hòa, nhưng chính vì bão hòa mà mình phải vươn lên khẳng định mình,
nói chúng là phải cố gắng. Đối với sự phát triển của làng nghề, cơ quan nhà nước
có sự hỗ trợ về pháp nhân, pháp lý, định hướng đầu tư về máy móc và nhà xưởng,
còn về vật chất thì phải tự mình cố gắng và vươn lên thôi”- ông Dũng chia sẻ
thật lòng về việc duy trì và phát triển nghề gốm trong những năm gần đây.
Nâng niu chén
trà trên tay, ngắm nhìn chiếc chén vẫn giữ được cái màu nâu đượm cháy của đất,
đơn giản, mộc mạc nhưng không kém phần tinh xảo, tôi băn khoăn về tương lai của
làng nghề truyền thống này. Nhìn đi nhìn lại khắp các xưởng gốm cũng chỉ thấy
toàn những người thợ trung tuổi, mấy người nghệ nhân già, người trẻ nhất cũng
đã ngoài 30 tuổi.
Những năm nay,
làng gốm vắng hơn, những thợ gốm đa phần kiếm sống bằng nghề khác. Có những
người thợ trước đây làm gốm, nhưng vì thu nhập bấp bênh, nên đã từ bỏ nghề và
đổ dồn về các khu công nghiệp để làm thuê. “Lớp trẻ lớn lên, đứa học tiếp lên
đại học, hoặc đi làm xa xứ, còn những người trẻ ở lại đa phần đi làm ở các khu
công nghiệp mới mở gần đó, thu nhập cao mà sạch sẽ, thanh niên giờ chúng nó
muốn thoát ly đồng ruộng, ai lại muốn trở về làm cái nghề gắn liền với bùn đất,
củi lửa thế này” – một người thợ gốm đã già với mái tóc hoa râm chia sẻ mà
không khỏi bùi ngùi.
Nắng tháng mười
dịu nhẹ, hanh hao với những làn gió heo may se lạnh, làng nghề gốm truyền thống
Gia Thủy nằm tĩnh mịch giữa một khoảng đồng bao la thẳng cánh cò bay. Những
ngày cuối năm bận rộn, đơn hàng đặt nhiều thêm, mọi người tất bật với mẻ gốm
mới ra lò, tiếng cười nói vui vẻ.
Những chiếc
chum, bình mới ra lò còn giữ nguyên nét hồn mộc mạc, nguyên sơ của đất và lửa, đượm
vàng dưới ánh nắng đầu đông. Với những người dân nơi đây, nghề gốm không chỉ là
sinh kế, mà còn là tình yêu nghề, sự tiếp nối truyền thống cha ông để lại, nơi
mảnh hồn của đất được thổi bừng trong màu gốm mộc, giản dị mà tinh tế.